Mật Mã Tây Tạng

Chương 25: Maya: biến chủng chu mỹ của văn minh hoa hạ



Totem mà người Maya sùng bái là thần Kukulkan và thần Báo châu Mỹ, gần với tín ngưỡng sùng bái long hổ của Trung Quốc; người Maya tôn sùng đồ bằng ngọc, hoàn toàn phù hợp với quan niệm của người Trung Quốc; kim tự tháp Maya hình dáng cấu tạo hoàn toàn khác với kim tự tháp Ai Cập, giống mộ hình đấu ngược của người Trung Quốc hơn, tác dụng chủ yếu là để tế trời, hình thức khác nhau mà công dụng thì như đàn tế của Trung Quốc; văn tự Maya có cùng phương thức tổ hợp và ký hiệu với Kim văn ở Ba Thục.

Giải thích nghi ngờ

Lữ Cánh Nam sắp xếp lại ý nghĩ trong đầu, chậm rãi nói: “Vị sứ giả vĩ đại nhất mang theo tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu. Quốc vương đã dùng nghi lễ tôn giáo cao nhất để nghênh tiếp ngài. Đồng thời sau khi trai tịnh chín ngày, đã thỉnh được sứ giả đưa thánh vật. Quốc Vương kinh ngạc vô cùng, liền hỏi mục đích của sứ giả. Sứ giả nói với quốc vương rằng ông muốn mang thánh vật tới tận cùng của thế giới. Quốc vương khẩn thỉnh xin được giữ lại bản tranh khắc của thánh vật và đã được sứ giả đồng ý. Sau đó, quốc vương cung cấp cho sứ giả rất nhiều tiền lộ phí, phái binh sĩ và chiến ngao cùng ngài tới nơi tận cùng thế giới. Bọn họ đi một chuyến, mất mười ba năm ròng rã, vượt qua hết ngọn núi này tới ngọn núi khác, băng qua biển lớn vô biên, tới một quốc gia vừa xa lạ lại vừa thần bí. Cây ở đó cao chọc trời, liền thành một khoảng lớn, trong rừng sâu, hiểm họa bốn bề, khắp nơi đều là các loài động vật và thực vật ăn thịt người mà họ chưa từng biết đến, kiến trúc ở nơi ấy cao lớn hùng vĩ, lớn hơn bất cứ tòa cung điện nào họ từng trông thấy; thần miếu ở đó giống như một ngôi tháp, là những hình tam giác khổng lồ ghép lại với nhau, cao đến tít chân mây, bậc thang thông thẳng lên giữa làn mây, văn tự ở đấy là tổ hợp của hình đầu người và hình vẽ các loại động thực vật…”

Vừa nghe đến câu chuyện chiến ngao và sứ giả, Trác Mộc Cường Ba lập tức liên hệ những mắt xích then chốt đó lại với nhau. Ở trong rừng Mãng Xà gã hoàn toàn sơ xuất không nghĩ tới. Yinawea, một vị thần đi khắp thế gian, phân thân của thần Chó bảo vệ ngài… sao mình lại quên mất được nhỉ! Trời ơi, như vậy thì, tất cả các phong tục gần giống với của Tây Tạng mà gã từng được thấy trong rừng rậm châu Mỹ đã có một lời giải thích hoàn toàn hợp lý. Chỉ có một điều, hơn một ngàn năm trước đã vượt qua Thái Bình Dương, thật sự bọn họ có thể làm được sao?

“Đợi chút đã…” Giáo sư Phương Tân khàn khàn giọng kêu lên: “Cô muốn nói là, một ngàn năm trước! Người dân tộc Tạng của chúng ta đã vượt qua biển lớn, đến tận châu Mỹ?!” Xem ra ông còn kinh ngạc hơn Trác Mộc Cường Ba gấp bội phần.

Lữ Cánh Nam mỉm cười: “Giáo sư không cần phải kinh ngạc như vậy đâu, hai người có biết theo kết luận mới nhất mà các chuyên gia nghiên cứu về Maya mới đưa ra, tổ tiên người Maya là ai không?”

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu như cái trống bỏi, thầm nhủ: “Chắc không thể nào là người dân tộc Tạng đấy chứ?” Giáo sư Phương Tân dường như đã nhớ ra điều gì đó, ngược lại trở nên trầm tư mặc tưởng.

Lữ Cánh Nam liền trả lời luôn: “Là người Mông Cổ. Cách đây một vạn năm, người Mông Cổ ở châu Á đã đến châu Mỹ rồi.”

Trác Mộc Cường Ba lẩm bẩm: “Chẳng phải Colombo phát hiện ra châu Mỹ hay sao?”

Lữ Cánh Nam gật đầu: “Chuyện ấy không sai, nhưng Colombo chỉ là người đầu tiên tuyên bố với thế giới rằng có một nơi gọi là châu Mỹ, không phải là người đầu tiên đặt chân lên mảnh đất đó. Trong nền văn hóa Maya, có rất nhiều tác phẩm nghệ thuật có thể phản ánh vấn đề này.” Lữ Cánh Nam lại lấy ra một số tư liệu liên quan, nói: “Trong các tác phẩm điêu khắc của người Maya có sắc thái châu Á, châu Phi rất rõ rệt, các tác phẩm nghệ thuật tinh xảo này đã lột tả rõ ràng một chủng người từng tới nơi đây. Nhìn tấm ảnh này xem, theo kết quả khảo chứng của các chuyên gia, tạo hình và phục sức của tượng người gốm này đều có đặc điểm của tượng người đời Tùy, đây không phải tướng mạo và cách ăn mặc của người Maya bản địa.”

Lữ Cánh Nam bước trở lại phía sau bàn làm việc, ngồi xuống ghế: “Còn quan hệ giữa Maya và Trung Quốc cũng là vấn đề được giới học thuật tranh luận nhiều nhất. Ở khu vực văn minh Olmec 1 mà văn minh Maya là một trong các đại diện, đã đào được rất nhiều ngọc khuê, tượng ngọc, và rất nhiều chế phẩm từ xương cốt nữa, và bên trên những thứ này, lại khắc Giáp cốt văn của Trung Quốc, nước ta từng có chuyên gia Giáp cốt văn đã nhận ra trên một chiếc ngọc khuê nguyên vẹn những ký hiệu có ý nghĩa là… “Quốc vương và thủ lĩnh khai sáng vương quốc“; ở Mexico, đào được mấy trăm bức tượng người bằng đất, tướng mạo không khác gì người Hoa, y phục cũng khá giống với các niên đại kể từ đời Tùy trở về trước; ở Honduras, phát hiện tác phẩm điêu khắc tương tự với rùa thần Huyền Vũ của Trung Quốc, ở Guatemala, đào được tiền giấy từ thời Tiên Tần; nếu vẫn thấy chưa đủ, thì còn nhiều lắm…” Lữ Cánh Nam nói cứ như bắn súng liên thanh. “Totem mà người Maya sùng bái là thần Kukulkan và thần Báo châu Mỹ, gần với tín ngưỡng sùng bái long hổ của Trung Quốc; người Maya tôn sùng đồ bằng ngọc, hoàn toàn phù hợp với quan niệm của người Trung Quốc; kim tự tháp Maya hình dáng cấu tạo hoàn toàn khác với kim tự tháp Ai Cập, giống mộ hình đấu ngược của người Trung Quốc hơn, tác dụng chủ yếu là để tế trời, hình thức khác nhau mà công dụng thì như đàn tế của Trung Quốc; văn tự Maya có cùng phương thức tổ hợp và ký hiệu với Kim văn ở Ba thục. Dựa theo các ghi chép trong văn vật, văn hiến liên quan đến quan hệ giữa người đất Thục và Trung Nguyên, và châu Mỹ, mối quan hệ này tuyệt đối không thể chỉ là trùng hợp. Hoàng Đế và con cháu của ông liên hôn với người Thục. Thiếu Hạo, Chuyên Húc đều sống ở đất Ba Thục, sau đó cùng đi châu Mỹ, khả năng văn tự cổ cùng được bảo tồn ở đất Thục và Trung Mỹ là hoàn toàn có thể xảy ra. Tiếng Maya đã có phát triển, còn Kim văn Ba Thục thì tương đối đơn giản một chút. Các học giả đã so sánh từ vựng cơ bản trong tiếng Maya và tiếng Hán, phát hiện ra rất nhiều từ tương đồng, chẳng hạn như “người“, “trời“, rộng lớn”, thời gian phân ly của hai thứ tiếng này có lẽ cách đây chừng 5.000 năm. Đến cả tục tế người sống cũng…” Lữ Cánh Nam đột nhiên dừng lại, tựa hồ như không muốn đề cập đến chủ đề này vậy.

Nhưng Trác Mộc Cường Ba đã nghe thấy, vội truy vấn: “Tục tế người sống! Cô nói tục tế người sống phải không?” Giáo sư Phương Tân ngồi bên cạnh khẽ gật đầu, hiển nhiên là đã tra cứu tư liệu về mặt này rồi.

Lữ Cánh Nam mấp máy miệng, cuối cùng cũng nói ra: “Không sai, người Maya lấy tim người hiến tế, còn ở Trung Quốc cổ đại, tục hiến người sống… còn… còn phức tạp hơn nhiều. Như trong sách Lễ Ký, chương Minh Đường Vị có viết, “Hữu Ngu dân tế thủ, Hạ Hậu dân tế tâm…”” trong Hậu Quán Thư, ghi rằng thủ lĩnh Lẫm Quân của người Ba ở Ba Quận tôn sùng totem hổ, cho hổ uống máu người. Còn chuyện tế người sống ký tải trong Giáp cốt văn thì cả ngàn cả vạn! Đến đời Chu 2 chính là chỉ tục tế người sống. Bất cứ dân tộc nguyên thủy nào cũng đều có các nghi lễ tương tự như tế người sống. Trong mắt người hiện đại chúng ta, có thể đây là biểu hiện chưa khai hóa, thực ra chỉ một cách để người xưa phát tiết cảm xúc mà thôi.” có tượng người thay thế, mới chấm dứt được tục lệ bắt người sống tuẫn táng. Thực ra ý nghĩa đầu tiên của “Sử tác dõng giả”

Thấy sắc mặt Trác Mộc Cường Ba biến đổi, Lữ Cánh Nam liền nói sang chủ đề khác: “Lại nói về Trung Quốc chúng ta, sách Hán Thư, chương Đông Di truyện có viết: “Cách Oa quốc 3 bốn vạn dặm về phía Đông, có Lõa quốc, cách Đông Nam Lõa quốc có Hắc Xỉ quốc, thuyền đi một năm mới tới nơi.” Hắc Xỉ quốc là hậu duệ của Thiếu Hạo, ở Trung Mỹ. Ghi chép trong Hán Thư đã chứng thực từ thời Hán đã có thể đi thuyền tới châu Mỹ rồi. Sách Liệt Tử, chương Thang Vấn viết: “Phía Đông Bột Hải, không biết cách mấy ức vạn dặm, có Đại Hách, thực ra là hang động không đấy, bên dưới không có đáy, tên gọi Quy Hư.” Đại Hách, Thang Cốc ở Trung Mỹ. Cổ nhân đã biết “phía Đông Bột Hải” chứng tỏ từ thời Chiến Quốc người Trung Quốc đã biết phương vị của Trung Mỹ ở đâu. Điều này chỉ có thể làm được khi họ đã hiểu rằng trái đất hình cầu, và có tuyến đường hàng hải thực tế. Lui về mấy thế kỷ trước, chuyện người Trung Quốc đi thuyền sang Mỹ cũng là có khả năng. Trong Sơn Hải kinh có nhiều đoạn viết từ thời Thiếu Hạo đã có thuyền tre, đến thời nhà Thương hơn hai ngàn năm sau đó chắc cũng phải có cơ sở vật chất tương đối rồi. Cuốn Tổ tiên Trung Hoa khẩn hoang châu Mỹ của ông Vương Đại Hữu, đã phân tích một cách chi tiết chuyện cuối thời n, hai mươi vạn quân dân đã vượt biển đến châu Mỹ. Gần đây đã có học giả phát hiện, trong bản đồ hàng hải của Trịnh Hòa có đánh dấu châu Mỹ rất rõ ràng, so với Colombo còn sớm hơn rất nhiều năm.”

Lữ Cánh Nam nói một tràng dài, rồi đưa nước cho Trác Mộc Cường Ba để gã bình tĩnh lại phần nào. Trong đầu Trác Mộc Cường Ba giờ là một mớ bòng bong, suy đi nghĩ lại sự việc tưởng chừng như hoàn toàn không có chút khả năng kia – người Trung Quốc đã biết đến châu Mỹ từ rất lâu về trước? Đồng thời còn thường xuyên tới đó? Người Maya và người Trung Quốc có chung tổ tiên? Nhưng nghe Lữ Cánh Nam nói một hồi, rồi thêm cả những tư liệu hàng thật giá thật kia, dường như đúng là có chuyện như vậy thật.

Đợi sắc mặt Trác Mộc Cường Ba bớt tái, Lữ Cánh Nam mới nói tiếp: “Được rồi, nói nhiều như vậy, mục đích cũng chỉ để anh tin rằng, hơn một ngàn năm trước, người Tạng đã vượt biển đến châu Mỹ cũng không phải là chuyện gì ghê gớm lắm. Bởi vì từ năm nghìn năm trước, người Trung Quốc chúng ta đã đến châu Mỹ rồi, mà hơn nữa, rất có khả năng vùng đất châu Mỹ ấy chính là do người Trung Quốc chúng ta khai phá cũng nên.”

“Không thể nào tin nổi.” Trác Mộc Cường Ba lẩm bẩm nói. Gã là người từng đến Bạch thành, nhìn thấy vương quốc bằng đá hùng vĩ, nhìn thấy những bức tranh, những pho tượng tinh xảo tuyệt mỹ, những văn tự phức tạp rối ren. Gã chưa từng thấy nền văn minh nào như vậy, nhưng có thể khẳng định, đây chắc chắn là một nền văn minh huy hoàng rực rỡ. Nhưng lúc này đây, lại có người nói với gã rằng nền văn minh ấy, rất có khả năng chính là biến chủng châu Mỹ của nền văn minh Hoa Hạ, thật sự là gã khó có thể chấp nhận được.

Lữ Cánh Nam nói: “Chúng ta tiếp tục nhé? Tốt lắm, thái độ mọi chuyện đều có khả năng xảy ra này mới chính là thái độ khoa học của một người làm công tác khảo sát đạt tiêu chuẩn. Theo thông tin dịch được trên trục quyển, bọn họ mang tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu trao cho quốc vương bảo vệ, quốc vương đã đáp ứng, sẽ để tòa thành được ánh sáng tảo chiếu vĩnh viễn cách ly với ánh mặt trời. Và ngay sau đó, ngài bắt đầu xây dựng tòa kim tự tháp lớn nhất trong lịch sử, tương truyền trên có thể thông tới tận thiên đình, dưới đào sâu xuống tận địa ngục âm ty.”

“Vậy tại sao vị quốc vương kia tốn nhiều tinh lực thỏa mãn yêu cầu của một người ngoại tộc làm gì?” Trác Mộc Cường Ba đột nhiên hỏi.

Lữ Cánh Nam nói: “Chuyện này hả? Ai mà biết được chứ, có rất nhiều thông tin trong trục quyển còn đang đợi giải nghĩa, có rất nhiều điểm chúng tôi vẫn chưa hiểu được. Nhưng có một điểm chúng tôi biết, đó là tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu ấy chắc là ở trong một kim tự tháp Maya.”

Cuối cùng Trác Mộc Cường Ba cũng đã hiểu, gã thấp giọng nói: “Vì vậy, chuyến diễn tập băng rừng nguyên sinh lần này của chúng tôi, mục đích chính là để tìm kiếm tòa thành ánh sáng tỏa chiếu kia. Thế nhưng, tại sao lúc xuất hành lại giấu giếm chúng tôi, cô có thể giải thích được không?”

Lữ Cánh Nam đáp: “Có ba nguyên nhân. Thứ nhất, tòa Bạch thành ấy vừa được một công ty dầu mỏ xuyên quốc gia phát hiện ra, nghe nói là đã vô tình tìm thấy trong khi lắp đặt đường ống dẫn dầu xuyên quốc gia, vẫn hoàn toàn phong tỏa tin tức đối với thế giới bên ngoài. Đương nhiên, chúng tôi sử dụng cách riêng của mình để có được tin tức, nhưng không thể công khai rộng rãi được. Thứ hai, cái gọi là tòa thành ánh sáng tỏa chiếu này, chúng tôi chỉ biết được cái tên, còn rốt cuộc nó là thứ gì, đến giờ chúng tôi vẫn chưa làm rõ được, vì thế, rốt cuộc là các anh đi đâu tìm, tìm cái gì, tôi cũng không thể nói cho cụ thể tận tường được. Thứ ba, cũng là điểm quan trọng nhất, chúng tôi có nghi ngờ, trong những người tham gia tập huấn lần này, có người qua lại với thế lực nước ngoài, tất nhiên cụ thể là ai thì chúng tôi vẫn còn chưa biết.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Ý của cô là, trong chúng tôi có nội gian ư?”

Lữ Cánh Nam gật đầu: “Nội gian thì không đến nỗi, gọi là người bắn tin đi. Tóm lại, chính những nguyên nhân này đã khiến tôi không thể cho các anh biết nội dung cụ thể của hành động lần này, tất cả chỉ còn cách nghe theo mệnh trời, nhưng đồng thời…” Lữ Cánh Nam cao giọng, “Hành động lần này cũng có thể coi như một lần diễn thử cho chuyến đi tới Bạc Ba La thần miếu của mọi người, chỉ tiếc là tình hình diễn thử quá đỗi tệ hại. Với trình độ của mọi người lúc này, chỉ sợ cả con đường tới Bạc Ba La thần miếu còn tìm chẳng ra, tất cả đã, đã…”

Lữ Cánh Nam không nói “đã thế nào”, nhưng Trác Mộc Cường Ba nhìn ra được, cô muốn nói rằng “tất cả đã chết sạch hết cả rồi.” Ánh mắt gã lộ rõ vẻ ngờ vực, thầm nhủ: “Chúng tôi không đến nỗi kém cỏi vậy chứ?”

Lữ Cánh Nam như nhìn thấy được tâm tư gã, liền nói: “Được rồi, anh vẫn còn nghi ngờ phải không. Vậy chúng ta có thể làm một so sánh bình đẳng nhé, lần này các anh gặp phải một đám du kích rời rã như nắm cát khô, hơn nữa còn mạnh ai nấy làm, chứ không phải quân đoàn có quy mô và tổ chức. Còn nếu như xuất phát tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, mọi người sẽ phải đối mặt với…” Lữ Cánh Nam đứng dậy, mở một ngăn bảo hiểm trên tủ sắt ra, lấy ra một tập văn kiện tuyệt mật, ném xuống trước mặt Trác Mộc Cường Ba: “…bọn chúng!”

Trác Mộc Cường Ba nhìn tấm ảnh đầu tiên trên tập tư liệu, lập tức thất thanh kêu toáng lên: “Là hắn, chính là hắn! Ở Khả Khả Tây Lý…”

Lữ Cánh Nam nói: “Người này tên là Ben Heinz Merkin, anh quen hắn à?”

Trác Mộc Cường Ba lướt qua hồ sơ của Merkin, suy nghĩ rất lâu. “Ben Heinz Merkin?” Dường như gã có ấn tượng gì đó với cái tên này, song nhất thời cũng không nhớ ra nổi, nhưng có thể chắc chắn người đàn ông này chính là người gã gặp ở Tây Tạng và Khả Khả Tây Lý. Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Giờ hắn ta đang ở đâu?”

Lữ Cánh Nam nói: “Không biết, trước khi chúng ta tới Ecuador, hắn đã một mình rời khỏi Trung Quốc, cho đến giờ vẫn chưa thấy xuất hiện.”

Giáo sư Phương Tân nhổm người đứng lên, Lữ Cánh Nam nói: “Ông cũng xem đi, giáo sư, có lẽ những người này là đối thủ đáng sợ nhất mà mọi người sắp phải đối mặt đấy.”

Giáo sư nhìn cái tên trên tập tư liệu – Ben Heinz Merkin, hỏi Trác Mộc Cường Ba: “Hắn chính là người cậu đã nhắc đến phải không?” Tấm ảnh y mặc quân phục, tóc vàng mắt xanh, lồ lộ cả một thể hình cao lớn, khí thế hừng hực khiến người ta đều phải sợ hãi.

Trác Mộc Cường Ba gật đầu: “Chính là hắn, ánh mắt của tên này như rắn độc vậy.”

Lữ Cánh Nam nói: “Chúng tôi đã dựa trên tư liệu của anh cung cấp tiến hành phân tích khuôn mặt và sắp xếp ghép hình, cho rằng đây chính là người anh đã nói tới, đồng thời triển khai điều tra về hắn luôn. Ben Heinz Merkin, đồng thời có ba quốc tịch Mỹ, Anh, Pháp, có quan hệ mật thiết với yếu nhân trong chính trường mười ba quốc gia châu u, từng đảm nhiệm chức cố vấn cho quân đoàn đặc chủng của các nước như Mỹ, Nga, Ý. Thân thế người này là một bí ẩn, không thể điều tra được bất cứ tư liệu nào về y trước năm ba mươi lăm tuổi, cứ như thế ba mươi lăm tuổi là y tự nhiên có mặt trên đời này vậy, hơn nữa còn có mặt với địa vị rất cao nữa, ngoài ra, y có hạn ngạch tín dụng thấu chi vô hạn của ngân hàng Liên bang. Kết quả điều tra cho biết, trong năm đầu tiên y xuất hiện trên thế giới này, đã có ba mươi mấy quan chức cấp cao u Mỹ nhận lời mời của y, tham gia bữa tiệc do y tổ chức. Cùng một năm đó, y trở thành cố vấn của quân đoàn đặc chủng thủy quân lục chiến Hoa Kỳ, kiêm nhiệm thêm giáo quan đội đặc nhiệm Hải Báo (Navy SEALs). Y chưa từng có quân hàm, nhưng bất luận là trong trường hợp nào, cũng đều xuất hiện với một bộ quân trang…”

Trác Mộc Cường Ba đột nhiên ngắt lời: “Quân trang? Hình như tôi đã nghe thấy chuyện về người này ở đâu rồi thì phải, để tôi nghĩ lại xem nào? Merkin, quân trang, quái thật, chắc là tôi nghe nói rồi mà, sao lại không thể nhớ được nhỉ…”

Lữ Cánh Nam mỉm cười: “Vậy sao, xem tiếp cái này đi.”

Nhưng Trác Mộc Cường Ba lại không nhận ra được người trên phần tư liệu này. Lữ Cánh Nam liền nói: “Kovsky, từng là cố vấn trong quân đội Nga, thân phận trước mặt của người này có lẽ là thủ lĩnh của một nhóm lính đánh thuê nào đó ở Nga. Hai người này từng gặp nhau trên lãnh thổ Trung Quốc, và bị người của chúng tôi phát hiện. Giờ chắc hai người biết, đối thủ của chúng ta là người như thế nào rồi chứ.”

Trác Mộc Cường Ba như được nghe thiên thư, kêu lên: “Trời ơi, giáo quan của lính đặc chủng Mỹ và lính đánh thuê Nga, sao bọn họ cũng có hứng thú với món này vậy?”

Lữ Cánh Nam gật đầu: “Phải, với thân phận và địa vị của họ, không nên là người hứng thú với Bạc Ba La mới phải, nhưng theo tin tức chúng tôi thu được, chính là người tên Merkin, đã tỏ ra có mối quan tâm rất lớn đến việc này.” Cô đưa tay xếp gọn lại đống tư liệu ở giữa, vừa sắp xếp vừa nói, “Chỗ này là tư liệu của những người từng tiếp xúc với Ben, trong đó có rất nhiều nội dung mọi người không thể biết được, chỉ có thể cho hai người xem chừng này mà thôi.”

Lúc này, trang tài liệu cuối cùng rơi xuống mặt bàn, trên trang giấy trống trơn một khoảng lớn, chỉ có ảnh chụp sau lưng của một người. Lữ Cánh Nam nói: “Người này là kẻ có thân phận thần bí nhất trong tất cả những người từng tiếp xúc với Ben, khả năng thoát khỏi sự theo dõi của y cực cao, nhân viên của chúng tôi theo dõi nhiều ngày, cũng chỉ có thể chụp được một tấm ảnh sau lưng thế này, các tư liệu khác hoàn toàn không có.”

Không ngờ, cả Trác Mộc Cường Ba lẫn giáo sư Phương Tân cùng đồng thanh thốt lên: “Cái bóng lưng này sao quen quá!”

Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn giáo sư Phương Tân, nói: “Tôi thấy rất giống cái bóng chúng ta từng gặp ở kim tự tháp.”

Giáo sư Phương Tân lắc đầu: “Không, tôi thấy giống bóng lưng một người khác hơn, nhưng không thể nào là người ấy được.” Ông nhìn bức ảnh thêm một lần nữa, rồi lắc đầu cười cười, “Thật sự là rất giống.”

Trác Mộc Cường Ba tò mò hỏi: “Là ai vậy, thầy giáo?”

Giáo sư Phương Tân nói: “Đó là một người có danh tiếng rất lớn trong giới nghiên cứu sinh vật học, y từng ba lần liên tiếp giành giải thưởng Polytex ở diễn đàn sinh vật học Matthew Liya đó.”

“Chà. Lợi hại vậy sao!” Trác Mộc Cường Ba há hốc miệng, gã biết rõ, giải thưởng Polytex ở diễn đàn Matthew Liya này giống như là giải Nobel trong giới động vật học vậy. Danh tiếng của giáo sư Phương Tân cao như thế mà cũng chưa một lần được nhận. Năm nay diễn đàn vốn đã chuẩn bị trao cho ông giải thưởng này rồi, nhưng giáo sư lại bị gã ép tham gia cái kế hoạch tìm chó ngao này, vậy là không thể không bỏ qua giải thưởng Polytex. Gã thật không thể ngờ, lại có người liên tiếp được giải này ba lần liền.

Giáo sư Phương Tân nói: “Ừm, phạm vi nghiên cứu của tôi chủ yếu tập trung vào loài chó, nhưng y thì có nghiên cứu rất sâu đối với cả giới động vật. Có điều, nên bình luận về người này thế nào nhỉ, trong giới nghiên cứu sinh vật chúng tôi, mọi người đều gọi y là tên điên, trong phạm vi nghiên cứu của y, có rất nhiều lĩnh vực đã vượt quá tư tưởng bình thường. Chẳng hạn như, y cho rằng hiện nay động vật và thực vật hoàn toàn phân rõ giới hạn, lẽ ra phải có một vật chủng quá độ mới đúng, vậy là cứ dốc sức nuôi trồng một loại vật chủng ở giữa động vật và thực vật, đó không phải những loại thực vật ăn thịt như cây nắp ấm đâu, mà là một loại vật chủng hoàn toàn mới, có thể chạy nhảy, săn mồi tìm thức ăn như động vật, đồng thời cũng có thể dựa vào quang hợp để sinh tồn như thực vật nữa. Để đạt được mục đích này, y đã cho gen của động vật và thực vật tạp giao với nhau, thậm chí đưa lên vũ trụ để làm biến dị bằng bức xạ yếu, hình như cuối cùng cũng chưa thành công. Hơn nữa, có tin đồn, để bồi dưỡng được một số gen ưu tú, y còn thụ tinh cho một số loại động vật hoàn toàn khác nhau, thậm chí bao gồm cả con người. Nhưng ngoài ra y cũng tham gia nghiên cứu về thực phẩm biến đổi gien, phương pháp dùng sinh vật khống chế sâu bệnh cũng có liên quan nhiều tới lý luận của y, và cũng chính y là người đưa ra liệu pháp chữa bệnh bằng gien. Tóm lại, con người này công tội ngang nhau, là một quái nhân, tôi rất khâm phục.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Không ngờ lại có người như vậy, người này tên là gì thế?”

“Soares Kahn.” Giáo sư Phương Tân không cần nghĩ ngợi gì đã đáp ngay.

Bí mật về bộ tộc Qua Ba

Lữ Cánh Nam thu lại những tư liệu tuyệt mật trên bàn, rồi nói: “Giờ thì anh đã hiểu tại sao tôi không vội cho các anh xuất phát chưa. Các hạng mục huấn luyện của các anh vẫn chưa hoàn thành, chúng tôi cũng chưa nắm bắt được một số tư liệu hết sức then chốt, mà quan trọng nhất là, năng lực hiện tại của mọi người vẫn chưa thích hợp tham gia hành động khảo sát lần này.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Nhưng mà, địa phương chúng ta cần khảo sát ở trong lãnh thổ Trung Quốc, ở Trung Quốc và ở nước khác, là hai chuyện hoàn toàn khác nhau đó.”

Lữ Cánh Nam lắc đầu: “Có gì khác chứ? Nhiều nhất cũng chỉ là anh có thêm vũ khí và một số trang bị cao cấp hơn thôi, mà khảo sát chân chính hoàn toàn không phải dựa vào những thứ ấy, thứ có thể dựa vào, chỉ có năng lực bản thân thôi, mọi người cần phải nâng cao năng lực của mình lên một cấp độ nữa. Chẳng hạn như tại sao lần này tôi có thể dễ dàng băng qua rừng rậm, còn mọi người lại không làm được? Không phải là tôi biết nhiều hơn mọi người bao nhiêu loài động vật, tôi cũng như anh thôi, có rất nhiều loài sinh vật tôi chưa từng gặp bao giờ, nhưng điểm khác biệt giữa chúng ta là tôi có thể thấy bản chất của sinh vật qua bề ngoài của chúng. Loài động vật này tiến hóa ra các cơ quan như vậy, chúng sẽ có công dụng gì, màu sắc trên da của chúng, những màu nào là để cảnh cáo, những màu nào chứng tỏ có độc, kết hợp với toàn bộ quần thể sinh vật và các loài thực vật xung quanh, anh sẽ hiểu được đó là một sinh vật có tính chất như thế nào, thiên địch của nó là gì, nguồn thức ăn của nó ở đâu. Một ví dụ khác, loài thực vật nào ăn được, đây không phải thuộc lòng là xong, trên thế giới này có cả ngàn cả vạn loài thực vật, anh mãn đời cũng nhớ không hết, chúng ta có thể học theo các loài động vật, hoặc có thể dùng cách nhịn đói tám tiếng để trắc lượng. Còn cả thời tiết nữa, thời tiết trong giới tự nhiên biến hóa khôn lường, cho dù là nhà khoa học nghiên cứu khí tượng cả đời cũng không thể dự báo chính xác trong hai mươi tư tiếng đồng hồ tiếp theo sẽ xuất hiện biến đổi thế nào, nhưng chỉ cần anh nắm bắt được phương hướng chủ đạo, biết được quan hệ giữa khí áp, tốc độ gió, độ ẩm không khí, anh có thể đưa ra phán đoán đại thể. Tất cả những thứ này, tôi đều chưa dạy cho mọi người, mọi người mới chỉ có cơ sở, vẫn cần phải nâng cao thêm một bước nữa đã.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi nghĩ là môi trường tự nhiên ở chỗ Bạc Ba La thần miếu không đến nỗi hung hiểm hơn cả rừng nguyên sinh châu Mỹ đâu.”

Lữ Cánh Nam lắc đầu: “Sai rồi! Tôi cho anh xem thứ này, là một thứ vô cùng quen thuộc với anh.” Cô mở máy tính, tìm trong kho dữ liệu mã hóa ra một bản ảnh quét của trục quyển, văn tự trên đó gần giống cả Tạng văn cổ lẫn Tạng văn hiện đại. Trác Mộc Cường Ba vừa liếc một cái đã nhận ra ngay, đây chính là Cổ kinh Ninh Mã mà gã đã đọc từ nhỏ tới lớn, đến cuối cùng chỉ cần trông thấy thôi là đã gật gà muốn ngủ.

Giáo sư Phương Tân nhìn màn hình máy tính nói: “Đây là một bộ kinh cổ phải không, văn tự trên đó cũng không phải tiếng Tạng cổ, viết gì vậy?”

Lữ Cánh Nam nói: “Cường Ba thiếu gia, anh nói cho giáo sư Phương Tân đi.”

Trác Mộc Cường Ba nhìn những ký hiệu trên màn hình, dở khóc dở cười, đây là đoạn khai diễn thần thoại trong Cổ kinh Ninh Mã, gần như chuyện các vị thần khai thiên lập địa vậy. Trác Mộc Cường Ba thực tình không thể nào hiểu nổi, các nhà nghiên cứu này đang nghiên cứu cái gì mà lại lôi chuyện thần thoại ra coi là thật nữa. Gã đành miễn cưỡng giải thích: “Đây là một đoạn kể câu chuyện chúng thần sáng tạo ra trời đất mới, đại khái là những vị thần minh muốn mang ánh sáng đến, chôn vùi bóng đêm, bọn họ đã tìm thấy cửa vào địa ngục, phiêu bạt mấy vạn năm trên dòng Minh hà đen như mực, lại vượt qua địa ngục man hoang, quái thú ở đó cao bằng tòa nhà ba tầng, da dày như giáp xe tăng, chim ở đó ăn thịt người và bò dê như chim sâu mổ thóc vậy, côn trùng ở đó cao bằng người, con muỗi to hơn con bò…” Nói miên nói mang, rồi Trác Mộc Cường Ba không khỏi bật cười nói: “Tôi thật không hiểu nổi, giáo quan, chẳng lẽ cô cho rằng, đây… kha kha… những ghi chép này thì có liên quan gì đến Bạc Ba La thần miếu chứ?”

Lữ Cánh Nam nói với vẻ hết sức nghiêm túc: “Theo kết quả phân tích tổng hợp từ nhiều nguồn tư liệu, chúng tôi cho rằng những ghi chép này rất có khả năng chính là miêu tả chân thực câu chuyện tổ tiên bộ tộc Qua Ba khai phá vùng đất xây dựng Bạc Ba La thần miếu.”

“Hả,” Trác Mộc Cường Ba suýt chút nữa thì phun nước trà trong miệng ra, lại nghe Lữ Cánh Nam nói tiếp: “Tất nhiên, cũng không loại trừ khả năng có chỗ phóng đại trong đây, nhưng cũng đủ để chúng ta thấy hoàn cảnh tự nhiên ở đó hiểm ác thế nào rồi.”

Trác Mộc Cường Ba cười cười: “Nói như vậy thì thân thế của tôi có quan hệ rất lớn với Bạc Ba La thần miếu kia rồi, đúng là Phật tổ hiển linh để cho tôi đi kiếm kiếp trước của mình à?”

Lữ Cánh Nam nói: “Giờ cũng chưa tiện đưa ra phán đoán, có điều cũng không phải là không có khả năng ấy xảy ra. Phải có…”

“Thái độ khoa học rằng tất cả mọi khả năng mọi khả năng đều có thể xảy ra, tôi biết rồi,” Trác Mộc Cường Ba tiếp lời, “nhưng cô cũng biết, thần thoại và tình hình thực tế rốt cuộc khác nhau nhiều như thế nào chứ, động vật cao bằng tòa nhà ba tầng, cô đã thấy bao giờ chưa vậy, giáo quan?”

Lữ Cánh Nam đáp: “Chưa từng thấy không có nghĩa là không có. Truyền thuyết Tử Kỳ Lân của anh, chẳng phải cũng từ trong cuốn cổ kinh này mà ra hay sao? Tại sao anh có thể tin tưởng chắc chắn vào Tử Kỳ Lân mà dè bỉu coi thường những nội dung khác trong cùng một quyển kinh như vậy?”

Nụ cười trên mặt Trác Mộc Cường Ba lập tức đông cứng, gã nghiền đi ngẫm lại lời Lữ Cánh Nam vừa nói, song vẫn không thể nào chấp nhận được giả thuyết của cô. Những điều Lữ Cánh Nam nói hôm nay đều vượt quá phạm vi cảm tri của gã, thật tình là Trác Mộc Cường Ba không sao chấp nhận được.

Lữ Cánh Nam lại nói: “Đúng rồi, lạt ma Á La có kể cho tôi về những việc mọi người trải qua ở Bạch thành.”

Trác Mộc Cường Ba lẩm bẩm hỏi: “Thì sao chứ?”

Lữ Cánh Nam gật đầu: “Thực ra đây cũng là vấn đề mà lần này chúng tôi tương đối lo lắng. Vì đến giai đoạn thứ ba mọi người mới bắt đầu tiếp xúc với cơ quan cạm bẫy, lần này có thể may mắn sống sót, một nửa là nhờ lạt ma Á La giúp đỡ, nửa còn lại có thể coi như ông trời có mắt đi, may mà mọi người mới chỉ gặp phải những thứ đơn giản thôi.”

Trác Mộc Cường Ba đã nhớ ra, lạt ma Á La nói những cơ quan chí mạng đó, chỉ có thể coi như cạm bẫy, vẫn chưa thể tính là cơ quan được, khi ấy gã đã ngẩn ra mất một lúc, lần này đến cả Lữ Cánh Nam cũng nói như vậy nữa, gã bèn hỏi: “Phải rồi, tôi cũng đang muốn hỏi đại sư Á La đây, tại sao ngài lại hiểu biết về cơ quan học như thế?”

Lữ Cánh Nam đáp: “Bởi vì bản thân đại sư, chính là một cao thủ cơ quan học.” Nói đoạn, cô đưa mắt nhìn sang phía ông.

Lạt ma Á La mỉm cười nói: “Cách nói “cơ quan” này xuất phát từ Trung Nguyên, từ trước khi Lỗ Ban chế tạo đồ vật, đã có một từ gọi là “cơ quan” chỉ thứ này rồi, sau đó trải qua ngàn năm, ngành học thuật về cơ quan được diễn dịch nhiều lần ở Trung Nguyên, và đạt đến trình độ bất cứ quốc gia nào trên thế giới cũng không thể bì kịp, vô số người tài trong lịch sử đều rất tinh thông môn cơ quan học này. Văn vương diễn giải Chu dịch, Khương Tử Nha giỏi chế tạo đồ, thực ra bắt đầu đề cập đến các học thuyết về cơ quan, thời Xuân Thu có các danh gia như Công Thâu Ban (tức Lỗ Ban), Mặc Địch, Tôn Vũ, Tiên Chẩn; thời Chiến Quốc có Quỷ Cốc Tử, Ngô Khởi, Tôn Tẫn và Cam Thạch; thời Tần có Lã Bất Vi, thời Hán Sở tranh hùng có Phạm Tăng, Trương Lương, Hàn Tín; thời Hán có Ban Siêu, Đinh Hoãn, Trương Hoành, Ngụy Bá Dương; thời Tam Quốc có Gia Các Lượng, Chu Công Uẩn, Mã Quân; thời Nam Bắc triều có Tổ Xung Chi, Vô Hoài Văn; còn đến đời Tùy Đường, hậu nhân có cơ sở của các danh gia như Lý Tịnh, Tôn Tư Mạc, Lý Thuần Phong, Tăng Nhất Hành, lại càng phát huy cơ quan học đến mức đỉnh cao, chỉ kém chút nữa thôi là đã hoàn thành bước đột phá từ thời đại binh khí lạnh đến thời đại binh khí nóng. Mà Bạc Ba La thần miếu chúng ta đang muốn tìm kiếm đây, chính là được xây dựng trong thời kỳ cơ quan học phát triển đỉnh cao này. Thời đó Đại Đường và Thổ Phồn qua lại rất mật thiết, kinh tế, tôn giáo, văn hóa đều có sự giao lưu, những cơ quan lần này mọi người gặp phải trong địa cung Maya so với cơ quan trong kiến trúc thời kỳ Thổ Phồn… ôi, sau này anh học sẽ biết, từ từ có dịp chúng ta sẽ trao đổi sau.”

Trác Mộc Cường Ba tò mò hỏi: “Trong nội dung mật tu của đại sư, cũng có cả cơ quan học nữa sao?”

Lạt ma Á La lắc đầu: “Không, đó là chuyện từ trước khi mật tu, văn hóa Trung Nguyên mênh mông như biển lớn, tôi chẳng qua chỉ là hạt muối giữa biển cả. Hôm nay tôi tạm không nhắc đến cơ quan học, tôi có mặt ở đây là để nói cho Cường Ba thiếu gia biết chuyện liên quan đến bộ tộc Qua Ba.”

“Bộ tộc Qua Ba?” Trác Mộc Cường Ba thoáng ngẩn người, tò mò nhìn lạt ma Á La với vẻ dò xét.

Lạt ma Á La gật đầu nói: “Đúng thế. Vừa rồi Cường Ba thiếu gia phản ứng rất mạnh với chuyện tổ tiên bộ tộc Qua Ba đã khai phá vùng đất để xây dựng Bạc Ba La thần miếu mà Lữ giáo quan nhắc tới, có điều tôi muốn hỏi Cường Ba thiếu gia một câu, rốt cuộc cậu hiểu gì về bộ tộc Qua Ba?”

“Bộ tộc Qua Ba…” Trác Mộc Cường Ba lặp lại từ một lượt, đồng thời ngẫm nghĩ trong đầu. Bộ tộc Qua Ba mà gã biết, nghe đồn là một dân tộc sống trong hãy Himalaya, đốt nương làm rẫy, bện thừng ghi chép sự việc vì không có văn tự. Người ta biết đến họ nhiều nhất là qua lối sống chung với sói, nhưng rất ít người được trông thấy họ. So ra thì bọn họ giống với những người nguyên thủy cách ly khỏi thế giới này, tương tự như các cư dân Kukuer vậy. Toàn bộ hiểu biết của Trác Mộc Cường Ba về bộ tộc Qua Ba, bao gồm cả Tử Kỳ Lân, đều bắt nguồn từ đủ các truyền thuyết trong ngôi làng gã sinh ra, và những lời giải thích của cha gã.

Lạt ma Á La nở một nụ cười như thể đang cố tỏ ra cao thâm khó lường, đến khi cả giáo sư Phương Tân cũng bị làm cho tò mò, cho tới khi Trác Mộc Cường Ba lắc đầu nói: “Tôi biết ít lắm.” Ông mới bắt đầu lên tiếng: “Bộ tộc Qua Ba, từng là đội quân mạnh nhất của Thổ Phồn!”

“Hả?” “Cái gì?” “Không phải là bộ tộc bảo vệ Tứ Phương thần miếu hay sao?” Trác Mộc Cường Ba và giáo sư Phương Tân gần như cùng lúc kêu lên. Một dân tộc nguyên thủy như vậy, quả thực bọn họ không thể nào tìm ra bất cứ mối liên hệ nào với quân đội Thổ Phồn cả.

Nhìn bộ dạng khoan thai và nụ cười mỉm thần bí trên gương mặt lạt ma Á La, Trác Mộc Cường Ba và giáo sư Phương Tân tức khắc cảm thấy tâm trạng đang sôi sục của mình từ từ lắng lại, chỉ lặng lẽ đợi ông nói tiếp.

“Bộ tộc Qua Ba có tổng cộng ba nhánh, nhưng cùng chung một cội rễ, nếu nói kỹ càng, chỉ sợ không thể nói hết được, Ở đây tôi chỉ đề cập đến những vấn đề chính yếu thôi. Mọi người cũng đừng hỏi gì, đợi tôi nói xong đã.” Giọng lạt ma Á La vang vang trong phòng, khiến người nghe cảm thấy bình tâm tĩnh trí, “Bộ tộc Qua Ba khởi nguồn từ nước Tượng Hùng, là một nhánh nhỏ trong mười hai tiểu bang của nước Tượng Hùng cổ. Tập tục sống chung với sói của họ tương truyền đã có từ thời cổ. Bộ tộc này dân số rất đông, sống trong hang núi, tính cách mạnh mẽ, háo võ, háo đấu, tính cách như loài sói. Nhưng trước đó Tượng Hùng hùng mạnh vô song, bộ tộc Qua Ba hoàn toàn không nổi bật. Khi Tượng Hùng thất thế trước Thổ Phồn, cánh quân mạnh nhất của Thổ Phồn chủ yếu là người của bộ tộc Qua Ba, bấy giờ đã đánh cho nước Tượng hùng thất bại liểng xiểng, lịch sử gọi là Đạo quân Ánh sáng. Về sau biên chế trong cánh quân này chỉ còn toàn là người bộ tộc Qua Ba. Đạo quân Ánh sáng được bậc nhân tài kiệt xuất nhất Thổ Phồn, Tùng Tán Can Bố xây dựng, mới đầu chỉ có chưa đầy vạn người, khi đông đảo nhất cũng không quá hai vạn. Tương truyền Tùng Tán Can Bố có được người Qua Ba trợ giúp, lấy làm mừng rỡ, liền di chuyển toàn bộ bộ tộc đến gần Vương đô. Để sắp xếp chỗ ở cho họ, ngài đã phái người đào đá làm hang động, tổng cộng đào được tám hang, mỗi hang chứa hơn vạn người, trong sử sách gọi là Lang Cương. Thời kỳ đầu, gần như không ai biết đến sự tồn tại của cánh quân này. Nhưng tới thời Xích Tùng Đức Tán, quân Hóa Thân của Thổ Phồn đã danh chấn Tây Vực, uy danh vang đến tận Đại Đường. Mà quân Hóa Thân chính là tên gọi Đạo quân Ánh sáng do một vương quốc nhỏ bị nó đánh bại đặt cho. Có thể nói như thế này, Thổ Phồn phía Đông giáp với Đại Đường, phía Bắc giáp Đột Quyết, phía Tây lấy Đại Bột Luật, Tiểu Bột Luật 4, phía Nam chiếm Ni Bà La 5, mở ra một cương thổ rộng lớn, truyền đời thống trị được hơn hai trăm năm có dư, phần lớn cũng nhờ vào sức mạnh có tính quyết định nhất của Đạo quân Ánh sáng, kể từ ngày được thành lập đã hùng cứ cao nguyên, hơn hai trăm năm chưa từng biết mùi thất bại. Các chiến tướng nổi tiếng thời Tùy Đường như Hầu Quân Tập, Tiết Nhân Quý đều thua to dưới tay bọn họ. Họ chính là con át chủ bài của quân đội Thổ Phồn, cũng chính là nên móng giữ vững vương triều Thổ Phồn.”

Điều này… Trong lòng giáo sư Phương Tân và Trác Mộc Cường Ba đều vô cùng nôn nao muốn hỏi. Có một cánh quân mạnh mẽ nhường ấy, nhưng sao cả hai bọn họ đều chưa từng nghe nhắc tới bao giờ? Có điều lạt ma Á La đã nhắc nhở, hai người đều cố nín nhịn mà nghe ông nói tiếp.

“Đó là nhánh đầu tiên. Nhánh thứ hai, lập ra sau khi Đạo quân Ánh sáng thu thậm thêm người bộ tộc Qua Ba vào huấn luyện. Khi ấy Trấn Biên miếu hay còn gọi là Tứ Phương miếu của Tùng Tán Can Bố đại vương đã xây dựng xong. Để giữ những bảo vật quý giá nhất, ngài đã điều ra bốn đội hộ vệ trong Đạo quân Ánh sáng canh Tứ Phương miếu. Đây chính là nguồn gốc của bộ tộc Qua Ba bảo vệ Tứ Phương miếu mà mọi người đã biết. Bọn họ không chỉ bảo vệ có một ngôi miếu ở Cực Nam, mà toàn bộ Tứ Phương miếu. Nhánh cuối cùng, là một số người Qua Ba còn lại, được biên chế vào các đội quân bình thường, theo quân đội dần dần di chuyển đến địa giới Tứ Xuyên ngày nay. Trên thực tế, đến nay có rất nhiều người Tạng là hậu duệ của quân đội Thổ Phồn ngày ấy, vốn trên đường hành quân đánh trận có thể đã nhận lệnh đồn trú tại nhiều nơi khác nhau. Như Cao Át, Anh Cách, còn cả bộ tộc Nạp Tây khá nổi tiếng nữa, đều có tổ tiên quân Thổ Phồn cả. Tại sao tôi lại kể cho hai người nghe về Đạo quân Ánh sáng thành viên toàn là người Qua Ba này chứ? Nguyên nhân hết sức đơn giản, bọn họ không chỉ bảo vệ Tứ Phương miếu, mà còn có quan hệ trực tiếp với Bạc Ba La thần miếu. Có một sự thật lịch sử mà chúng ta không thể không nhìn thẳng vào: Mặc dù các Tán thổ của Thổ Phồn có nhiều người từng bị ám sát, nhưng hầu hết đều chết dưới tay những đại thần thân tín ở ngay bên cạnh hoặc do một chuỗi các âm mưu ám hại, song ở giữa chốn thanh thiên bạch nhật, bị kẻ bên ngoài ám sát thành công, duy chỉ có Tán thổ Lãng Đạt Mã mà thôi. Còn nữa, trong lịch sử Thổ Phồn, chuyện xuất hiện hai triều đình một lúc, cũng chỉ có ngoại lệ duy nhất đó, bao đời Thổ Phồn lúc nào cũng chỉ có một vị. Ngoài ra trong lịch sử Thổ Phồn không phải không có khởi nghĩa của thường dân, thậm chí có thể nói rằng chúng xảy ra liên miên, nhưng thành công thì chưa hề có cuộc nào. Chỉ có Lãng Đạt Mã sau khi diệt Phật, bị nghĩa quân tấn công tiêu diệt, cả vương triều mới theo đó mà sụp đổ hoàn toàn. Nguyên nhân chính là… sau khi Lãng Đạt Mã tuyên bố diệt Phật không được bao lâu, đạo quân Ánh sáng thất bại, bỗng đột nhiên biến mất cùng với toàn bộ bảo vật giấu trong Tứ Phương miếu! Không ai biết bọn họ đi đâu, bởi vì đó là một giai đoạn lịch sử hoàn toàn kín bưng, chúng tôi chỉ biết rằng vệ sĩ bên cạnh Lãng Đạt Mã không còn là người của Đạo quân Ánh sáng nữa. Vị Tán thổ sau này cũng không còn khống chế được Đạo quân Ánh sáng, kẻ địch mà các nông nô khởi nghĩa phải đối mặt cũng không phải là Đạo quân Ánh sáng vô địch nữa. Rốt cuộc bọn họ đã đi đâu, theo ý kiến tranh cãi của các chuyên gia, rất có khả năng Đạo quân Ánh sáng đó chính là đội bảo vệ đã đưa báu vật trong Tứ Phương miếu vận chuyển đến Bạc Ba La thần miếu. Bọn họ có lẽ đã ở lại Bạc Ba La, và bộ tộc Qua Ba mà chúng ta sắp phải giáp mặt có lẽ chính là hậu duệ của họ. Được rồi, hai người có thể đặt câu hỏi.”

“Ừm, ừm,” Trác Mộc Cường Ba cổ họng giật giật, vội hỏi: “Sao tôi chưa từng nghe nói đến một đội quân hùng mạnh như vậy nhỉ?”

Lạt ma Á La thản nhiên đáp: “Đương nhiên, đội quân này…” ông chỉ vào đống tư liệu nói, “trong các tư liệu không có, trong sử sách cũng chưa từng ghi chép, bằng không, đâu cần tôi ngồi đây giải thích với hai người lai lịch của nó. Trên thực tế, sự tồn tại của đạo quân này, mỗi triều đại Thổ Phồn cũng chỉ có hai người được biết, một chính là Tán thổ, người còn lại chính là thống soái tối cao của Đạo quân Ánh sáng. Vị thống soái tối cao này, thông thường đều do quý tộc người Tượng Hùng đảm nhiệm.”

“Nhưng đó đâu phải một hai người, đó là cả một đạo quân trên vạn người cơ mà, không lẽ nào không có chút vết tích gì trong lịch sử?” Câu hỏi của giáo sư Phương Tân trực tiếp cụ thể hơn nhiều.

Lạt ma Á La gật đầu: “Đúng thế, trong sử sách cũng có nhiều chỗ nhắc tới, chẳng qua là chưa bao giờ được người ta chú ý đến mà thôi. Binh sĩ trong Đạo quân Ánh sáng đều được gọi là quân Hóa Thân. Nói cách này, ban đầu có lẽ là do nhà Đường hoặc một vài vương quốc nhỏ bị Thổ Phồn thôn tính lưu truyền ra ngoài. Về sau trong các thư tịch, đều dùng tên này để gọi quân Thổ Phồn luôn. Kỳ thực ý nghĩa ban đầu của nó ý là để chỉ đạo quân này quá đỗi mạnh mẽ, không giống người phàm, đều do quỷ thần hóa thân mà thành. Trong Tây Tạng vương thống ký có nhắc đến chuyện Tùng Tán Can Bố cầu thân với Nepal, Đại Đường, từng viết trong thư rằng, nếu không gả công chúa cho ta, ta sẽ dùng quân Hóa Thân đánh các người, cướp công chúa về. Còn về tính chân thực của thư tín thời ấy, các nhà nghiên cứu sử học đã từng nhiều bận tranh cãi, thực ra cái tên quân Hóa Thân, phải đến đời Xích Đức Tùng Tán mới có, chỉ vì cái tên này quá nổi bật, nên Tây Tạng vương thống ký sau đó mới lấy sử dụng luôn. Có điều chúng tôi cho rằng hành vi lấy vũ lực uy hiếp nhắc đến trong thư là chính xác. Dù sao thì lúc lập nên Đạo quân Ánh sáng này Tùng Tán Can Bố hãy còn trẻ, chưa đầy hai mươi. Tuổi trẻ khí thịnh, cầu thân với nước lớn, muốn khoe khoang một chút cũng là điều có thể lý giải được. Có điều đâu đâu cũng vậy, trong sử sách các nước đều chỉ nhắc đến đạo quân này một cách rất lẻ tẻ vụn vặt, cùng lắm là nhắc đến mấy chữ “quân Hóa Thân“, còn về nhân số, vũ khí trang bị, áo giáp, dàn trận, cờ chiến, chủ soái… nhất loạt đều chưa từng có ghi chép.”

“Tại sao?”

“Bởi vì Đạo quân Ánh sáng khác với những đạo quân bình thường. Mỗi trận chiến, họ nhất định đều phải tế huyết kỳ.” Lạt ma Á La dường như đã đoán trước Trác Mộc Cường Ba sẽ hỏi câu này.

“Tế huyết kỳ?” Trác Mộc Cường Ba lại không hiểu gì, nhưng giáo sư Phương Tân thì không khỏi lạnh sống lưng, đưa tay khẽ vuốt những hạt mồ hôi li ti trên trán.

Lạt ma Á La gật đầu: “Nói một cách đơn giản, chính là không có tù binh… nói cách khác, chính là không để lại người sống.” Nhìn vẻ mặt nghi hoặc của Trác Mộc Cường Ba, cuối cùng lạt ma Á La cũng nói rõ ra, rồi giải thích tiếp, “Thực ra, cách làm này cũng là học ở Trung Nguyên thôi, thời Chiến Quốc, nước Tần có một vị danh tướng tên là Bạch Khởi, mỗi trận chiến đều tế huyết kỳ, trên chiến trường chỉ để lại quân sĩ của mình còn đứng, còn kẻ địch thì đều nhất loạt chặt hết đầu. Chỉ riêng nước Sở thôi đã có không dưới một triệu binh sĩ bị Bạch Khởi trảm thủ rồi, thời đó, như vậy gần như đã là thảm họa diệt quốc rồi. Có nhà sử học còn nói, nếu không có Bạch Khởi, nước Tần muốn thống nhất Trung Nguyên ít nhất cũng phải tốn thêm một trăm năm nữa. Còn Đạo quân Ánh sáng, vốn được lập nên để đối phó với vương triều Tượng Hùng, Tùng Tán Can Bố lúc nào cũng cảm thấy đạo quân này vẫn còn có gì đó chưa đầy đủ. Về sau khi hai vị công chúa Nepal và Đại Đường vào Tây Tạng, mang theo rất nhiều tri thức quân sự và trang bị tác chiến, Đạo quân Ánh sáng mới ngày một hoàn thiện, cuối cùng đánh bại Tượng Hùng, chỉ trong một trận chiến đã lưu danh, xác lập địa vị bá chủ cao nguyên mới của nước Thổ Phồn.”

Trác Mộc Cường Ba hít sau một hơi khí lạnh, cố hỏi tiếp: “Nếu đạo quân đó bí mật như vậy, tại sao đại sư…”

Lạt ma Á La lắc đầu: “Không phải tôi biết, mà là kết quả mấy chục năm khảo chứng của tổ chuyên gia đó. Muốn đưa ra được kết luận này, không chỉ nghiên cứu Tạng văn, còn phải đi sâu nghiên cứu cả lịch sử các vương quốc, thành bang, bộ lạc lớn nhỏ ở khu vực cao nguyên và Tây vực thời bấy giờ, cùng với rất nhiều bằng chứng phụ khác như sử thi, truyền thuyết, ca khúc và các tranh vẽ, tỷ như trong sử thi Cách Tát Nhĩ vương có hàm ẩn câu chuyện thu nhận và biên chế người Qua Ta thành quân đội chẳng hạn.”

Trác Mộc Cường Ba nghe mà á khẩu không nói năng được gì, cả giáo sư Phương Tân cũng không khỏi trợn mắt ngạc nhiên.

Đến lúc này Lữ Cánh Nam mới lên tiếng: “Giờ thì anh đã biết mọi người sắp đến nơi nào chưa? Đối thủ của các anh mạnh mẽ hơn quân du kích, còn dân tộc ở đó thì đáng sợ gấp bội các bộ lạc ăn thịt người. Một dân tộc sống chung với chó sói, được gọi là Đạo quân Ánh sáng bất bại, anh thử nghĩ xem: môi trường tự nhiên còn ác liệt hơn rừng nguyên sinh Nam Mỹ, cơ quan cạm bẫy hung hiểm hơn bất cứ nơi nào. Các anh thậm chí cả rừng nguyên sinh còn không thể băng qua được, dựa vào cái gì để tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu và Tử Kỳ Lân đây? Chỉ dựa vào vận may thôi hả?”

——————————–

1 Olmec là nền văn minh lớn đầu tiên tại châu Mỹ thời tiền Colombo, kéo dài từ năm 1200 tr. CN đến năm 300 tr. CN.

2 Dõng là người đất hay người gỗ tuẫn táng theo người chết thời cổ; thành ngữ này nghĩa là “người khởi xướng ra việc làm dõng”, ý chỉ người đầu têu ra những tật xấu thói hư.

3 Nhật Bản ngày nay.

4 Quốc gia cổ nằm ở vùng phía Bắc Kashmir trên lưu vực sông Ấn.

5 Nepal ngày nay.


Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương